Chữ Hán:

          <3197>

後神碑記

慈山府東岸縣浯溪社奉事碑記。

〇夫事有可傳則書之,書之不足則碑之,于以示盛儀美意於無窮也。

睠惟〇〇王府侍內監、司禮監同知監事、正隊長、泗忠侯阮公諱任,性天舒適,心地和平。孝以事親,宗族鄉黨稱其孝;忠而奉上,親朋故舊許其忠。潛邸之攀附有緣,禁闥之勤勞益力,人皆以賢內侍目之。

于斯時兮,〇〇聖上軫舊人,〇朝廷嘉宿輔,陟顯官,膺厚祿,河流汪洋而潤澤,樹影穠密以娑婆,近之悅之,遠之慕之。顧茲本社,久仰帡幪,深惟報答,胥相議曰:我公之於我邑,善以率人,恩而待眾,素矣。我等當如何以報之?行將事以神明,庶乎其可。雖然,報而無迹,則厥報弗章,何以明示於來世?是故報之有自,中古而下,往往皆然。今之計,孰若請我公為我邑構作大亭一座,架之以鉄林,蓋之以瓦片,匠功設祭,一一應辦。併留下膄田貳畝,用供他日黍稷之需。逮我公百年之後,當位于廟亭之左,每遇諱日,則本社具牲一口、炊一盤、酒一圩以祀之。遞年入席祈福,則供炊一盤。四時嘗先、節料等禮,亦隨宜敬祭,次于事神一席。而我公之〇尊爺亦列于廟亭之右,歲時歆祀,永永無窮,以全施報之義於萬世。

議成,具以前情來請。阮公知厚意,筦然從之。已而大亭屹立,宮垣有侐於中天;膄畝宏開,禾榖無窮於平地。做好人,做好事,做好鄉邑,聞見者咸器異之。事圓,因徵文以紀其實。

吁!施報,禮也。而施其所當施,報其所當報,豈非天理民彝之自然乎?後之生斯邑者,目是碑則思是德,心是德則愛是碑。香火之,俎豆之,常使此恩此德與日月同其光明,與山嶽同其悠久,則邑里仁厚之俗亦與之相為光明悠久矣。顧不韙歟!遂於是乎記。

<3198>

皇朝正和萬萬年之二十三,龍輯壬午季春榖日立。

賜庚戌科同進士出身陪從工部左侍郎知水師,署中書監應川男鄧祝齋撰。

丙寅科首科,侍內書寫水兵番所使陶廷甲寫。

紹天東山安穫石匠局阮維仁鐫。

 

計開:

一田拾所,共貳畝:

一所棟通處田叁高;一所尋丕處田壹高;

一所爐𤬪處田壹高半;一所棟椿處田壹高半;

一所同葻處田貳高;一所同森處田貳高;

一所同經處田五高;一所沉不處田壹高;

一所買𨎠處田貳高;一所同差處田壹高。

一本社官員鄉色、姓名:

謝名洋、阮岸、吳有能、吳有財、吳時名、阮婁、吳公堅、阮成功、阮布、阮進朝、阮登春、阮名望、阮有進、阮有用、吳戒、阮仁賢、阮世財、吳時教、阮𥪞、阮文聲、阮炳、阮進奉、阮千年、吳進、謝【】、謝滝、吳時政、陳文宣、阮文調、吳時平、阮世【威】、吳公謹。

 

 

 

Phiên âm:

<3197>

Hậu Thần bi ký

Từ Sơn phủ Đông Ngàn huyện Ngô Khê xã phụng sự bi ký.

Phù, sự hữu khả truyền tắc thư chi, thư chi bất túc tắc bi chi, vu dĩ kỳ thịnh nghi mỹ ý ư vô cùng dã.

Quyến duy Vương phủ Thị Nội giám, Tư lễ giám Đồng Tri giám sự, Chánh đội trưởng, Tứ Trung hầu Nguyễn công huý Nhậm, tính thiên thư thích, tâm địa hòa bình. Hiếu dĩ sự thân, tông tộc hương đảng xưng kỳ hiếu; trung nhi phụng thượng, thân bằng cố cựu hứa kỳ trung. Tiềm để chi phan phụ hữu duyên, cấm thát chi cần lao ích lực, nhân giai dĩ hiền nội thị mục chi.

Vu tư thời hề, Thánh thượng chẩn cựu nhân, triều đình gia túc phụ, trắc hiển quan, ưng hậu lộc, hà lưu uông dương nhi nhuận trạch, thụ ảnh nùng mật dĩ sa bà, cận chi duyệt chi, viễn chi mộ chi. Cố tư bản xã, cửu ngưỡng bình mông, thâm duy báo đáp, tư tương nghị viết: “Ngã công chi ư ngã ấp, thiện dĩ suất nhân, ân nhi đãi chúng, tố hỹ. Ngã đẳng đương như hà dĩ báo chi? Hành tương sự dĩ thần minh, thứ hồ kỳ khả. Tuy nhiên, báo nhi vô tích, tắc quyết báo phất chương, hà dĩ minh kỳ ư lai thế? Thị cố báo chi hữu tự, trung cổ nhi hạ, vãng vãng giai nhiên. Kim chi kế, thục nhược thỉnh ngã công vị ngã ấp cấu tác đại đình nhất tọa, giá chi dĩ thiết lâm, cái chi dĩ ngoã phiến, tượng công thiết tế, nhất nhất ưng biện. Tính lưu hạ sấu điền nhị mẫu, dụng cung tha nhật thử tắc chi nhu. Đãi ngã công bách niên chi hậu, đương vị vu miếu đình chi tả, mỗi ngộ huý nhật, tắc bản xã cụ sinh nhất khẩu, xôi nhất bàn, tửu nhất vu dĩ tự chi. Đệ niên nhập tịch kỳ phúc, tắc cúng xôi nhất bàn. Tứ thời thường tiên, tiết liệu đẳng lễ, diệc tuỳ nghi kính tế, thứ vu sự thần nhất tịch. Nhi ngã công chi tôn gia diệc liệt vu miếu đình chi hữu, tuế thời hâm tự, vĩnh vĩnh vô cùng, dĩ toàn thi báo chi nghĩa ư vạn thế”.

Nghị thành, cụ dĩ tiền tình lai thỉnh. Nguyễn công tri hậu ý, quản nhiên tòng chi. Dĩ nhi đại đình ngật lập, cung viên hữu hức ư trung thiên; sấu mẫu hoành khai, hoà cốc vô cùng ư bình địa. Tố hảo nhân, tố hảo sự, tố hảo hương ấp, văn kiến giả hàm khí dị chi. Sự viên, nhân trưng văn dĩ kỷ kỳ thực.

Hu! Thi báo, lễ dã. Nhi thi kỳ sở đương thi, báo kỳ sở đương báo, khởi phi thiên lý dân di chi tự nhiên hồ? Hậu chi sinh tư ấp giả, mục thị bi tắc tư thị đức, tâm thị đức tắc ái thị bi. Hương hoả chi, trở đậu chi, thường sử thử ân thử đức dữ nhật nguyệt đồng kỳ quang minh, dữ sơn nhạc đồng kỳ du cửu, tắc ấp lý nhân hậu chi tục diệc dữ chi tương vi quang minh du cửu hỹ. Cố bất vĩ dư! Toại ư thị hồ ký.

Thời

<3198>

Hoàng triều Chính Hòa vạn vạn niên chi nhị thập tam, long tập Nhâm Ngọ quý xuân cốc nhật lập.

Tứ Canh Tuất khoa Đồng Tiến sĩ xuất thân, Bồi tụng Công bộ Tả Thị lang, Tri thuỷ sư, thự Trung thư giám, Ứng Xuyên nam Đặng Chúc Trai soạn.

Bính Dần khoa Thủ khoa, Thị nội thư tả Thuỷ Binh phiên Sở sứ Đào Đình Giáp tả.

Thiệu Thiên Đông Sơn An Hoạch Thạch tượng cục Nguyễn Duy Nhân tuyên.

Kê khai:

Nhất điền thập sở, cộng nhị mẫu:

Nhất sở Đống Thông xứ điền tam sào; nhất sở Tầm Vậy xứ điền nhất sào;

Nhất sở Lò Ngói xứ điền nhất sào bán; nhất sở Đống Thung xứ điền nhất sào bán;

Nhất sở Đồng Bông xứ điền nhị sào; nhất sở Đồng Sum xứ điền nhị sào;

Nhất sở Đồng Kinh xứ điền ngũ sào; nhất sở Chằm Bất xứ điền nhất sào;

Nhất sở Mái Trước xứ điền nhị sào; nhất sở Đồng Sai xứ điền nhất sào.

Nhất bản xã quan viên hương sắc, tính danh:

Tạ Danh Dương, Nguyễn Ngạn, Ngô Hữu Năng, Ngô Hữu Tài, Ngô Thì Danh, Nguyễn Lâu, Ngô Công Kiên, Nguyễn Thành Công, Nguyễn Bố, Nguyễn Tiến Triều, Nguyễn Đăng Xuân, Nguyễn Danh Vọng, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dụng, Ngô Giới, Nguyễn Nhân Hiền, Nguyễn Thế Tài, Ngô Thì Giáo, Nguyễn Trong, Nguyễn Văn Thanh, Nguyễn Bính, Nguyễn Tiến Phụng, Nguyễn Thiên Niên, Ngô Tiến, Tạ [], Tạ Long, Ngô Thì Chính, Trần Văn Tuyên, Nguyễn Văn Điệu, Ngô Thì Bình, Nguyễn Thế [Uy], Ngô Công Cẩn.

 

Dịch nghĩa:

<3197>

Văn bia Hậu Thần

Văn bia thờ phụng xã Ngô Khê huyện Đông Ngàn phủ Từ Sơn.

Ôi! Việc có thể lưu truyền thì nên ghi vào sách, viết sách không đủ thì có thể dựng bia, là để nêu cái nghi thức long trọng, tình cảm nồng hậu đến vô cùng vậy.

Mến nghĩ Vương phủ Thị Nội giám, Tư lễ giám Đồng Tri giám sự, Chánh đội trưởng, Tứ Trung hầu Nguyễn công tên huý là Nhậm, tính trời thư thái, tâm địa hòa bình. Thờ cha mẹ bằng đạo hiếu, họ hàng làng nước đều ngợi khen; thờ bề trên hết lòng trung, cố hữu thân bằng luôn công nhận. Nơi tiềm để thân cận có duyên, chốn cung cấm cần lao gắng sức, mọi người đều đánh giá là người nội thị có tài.

Vào lúc bấy giờ, Thánh thượng thương nhớ bậc kỳ cựu, triều đình khen ngợi bề tôi phò giúp cũ, nên được thăng chức quan cao, được nhận lộc hậu, ơn trạch thấm nhuần như sông nước mênh mang, bóng cây tươi tốt trong chốn sa bà, người gần thì vui vẻ, người ở xa thì mến mộ. Đến nay bản xã, được đội ơn che chở đã lâu, lòng đau đáu muốn báo đáp, bèn bàn bạc với nhau rằng: “Ngài của chúng ta đối với ấp ta, đem điều thiện để khiến người, dùng ân huệ để đãi dân, vốn thế đã lâu. Chúng ta biết phải báo đáp làm sao? Nên đem thờ như thần minh, ngõ hầu xứng đáng. Tuy nhiên, báo đáo mà không để lại dấu tích, thì việc báo đáp ấy không được biểu dương, thì lấy gì để bảo rõ cho đời sau được biết? Vì thế cho nên, báo đáp phải có lý do, từ đời trung cổ về sau, luôn luôn đều như thế. Nay bàn tính, chẳng bằng xin ngài chúng ta dựng cho làng ta một tòa đại đình, dựng bằng gỗ lim, lợp bằng ngói, thuê thợ, tế lễ, tất thảy đều đứng ra thực hiện. Với lại để lại cho làng 2 mẫu ruộng xấu, để chi dùng việc cúng tế ngày sau. Đợi sau khi ngài chúng ta trăm tuổi, thiết bài vị ở bên trái miếu đình, hằng năm vào ngày giỗ, thì bản xã sửa 1 con lợn, 1 mâm xôi, 1 vò rượu để cúng tế. Hằng năm vào đám cầu phúc, thì cúng 1 mâm xôi. Các tiết lễ cơm mới, lễ sắm tết quanh năm cũng tùy nghi cúng tế, lễ sau thờ thần một bậc. Còn ông cụ (bố) của ngài chúng ta cũng bày ở bên phải miếu đình, quanh năm thờ cúng, mãi mãi vô cùng, để trọn vẹn cái nghĩa thi báo đến muôn đời”.

Bàn xong, đem sự tình ấy đến thỉnh. Ngài Nguyễn công biết hậu tình, vui vẻ đồng ý. Từ đó, đình to dựng sừng sững, cung tường lặng lẽ ở giữa trời; ruộng xấu rộng thênh thang, thóc lúa bạt ngàn trên mặt đất. Người tốt, việc tốt, làng có tục tốt, người nghe người xem đều rất lấy làm lạ. Việc xong, đến xin tôi bài văn để ghi lại sự thực.

Ôi! Cho đi và báo đáp ấy là lễ vậy. Mà cho nơi đáng cho, báo điều đáng báo, chẳng phải điều tự nhiên của lý trời và phép dân ư? Đời sau, người sinh ra ở làng này, trông thấy tấm bia này thì nhớ đến đức ấy của ngài, lòng nhớ đến đức ấy thì phải yêu lấy tấm bia này. Hương khói, cúng tế ngài, luôn khiến cho ơn ấy đức ấy của ngài sáng ngời cùng nhật nguyệt, dài lâu cùng sông núi, như thế thì phong tục nhân hậu của xóm làng cũng sáng ngời, dài lâu cùng vậy. Chẳng đúng lắm sao. Vậy nay làm bài ký.

Bấy giờ là:

<3198>

Ngày lành tháng cuối xuân năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Chính Hòa thứ 23 (1702) dựng bia.

Đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất (1670), giữ chức Bồi tụng, Tả Thị lang bộ Công, Tri thuỷ sư, thự Trung thư giám, tước Ứng Xuyên nam là Đặng Chúc Trai soạn.

Thủ khoa khoa Bính Dần (1686), Thị nội thư tả Thuỷ Binh phiên Sở sứ Đào Đình Giáp viết chữ.

Thạch tượng cục Nguyễn Duy Nhân người xã An Hoạch huyện Đông Sơn phủ Thiệu Thiên khắc bia.

Kê khai:

- Ruộng 10 thửa, tổng cộng 2 mẫu:

+ 1 thửa xứ Đống Thông 3 sào; 1 thửa xứ Tầm Vậy 1 sào;

+ 1 thửa xứ Lò Ngói 1 sào rưỡi; + 1 thửa xứ Đống Thung 1 sào rưỡi;

+ 1 thửa xứ Đồng Bông 2 sào; + 1 thửa xứ Đồng Sum 2 sào;

+ 1 thửa xứ Đồng Kinh 5 sào; + 1 thửa xứ Chằm Bất 1 sào;

+ 1 thửa xứ Mái Trước 2 sào; + 1 thửa xứ Đồng Sai 1 sào.

- Họ tên chức sắc quan viên bản xã:

Tạ Danh Dương, Nguyễn Ngạn, Ngô Hữu Năng, Ngô Hữu Tài, Ngô Thì Danh, Nguyễn Lâu, Ngô Công Kiên, Nguyễn Thành Công, Nguyễn Bố, Nguyễn Tiến Triều, Nguyễn Đăng Xuân, Nguyễn Danh Vọng, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dụng, Ngô Giới, Nguyễn Nhân Hiền, Nguyễn Thế Tài, Ngô Thì Giáo, Nguyễn Trong, Nguyễn Văn Thanh, Nguyễn Bính, Nguyễn Tiến Phụng, Nguyễn Thiên Niên, Ngô Tiến, Tạ [], Tạ Long, Ngô Thì Chính, Trần Văn Tuyên, Nguyễn Văn Điệu, Ngô Thì Bình, Nguyễn Thế [Uy], Ngô Công Cẩn.

--------------

Hậu thần bi kí
后神碑記
Kí hiệu: 3197/3198
Thác bản bia xã Ngô Khê huyện Đông Ngàn phủ Từ Sơn 慈山府東岸縣吳溪, sưu tầm tại đình xã Hà Khê tổng Hà Khê huyện Đông Ngàn phủ Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh.
Thác bản 2 mặt, khổ 71 x 123 cm, gồm 37 dòng chữ Hán, toàn văn ước khoảng 600 chữ, có hoa văn, không có chữ húy.
Niên đại: Chính Hòa thứ 23 (1702).
Người soạn: Đặng [Đình Tướng] 鄧廷相, tên hiệu: Chúc Trai; học vị: Tiến sĩ khoa Canh Tuất (1670); chức vị: Công bộ Tả thị lang; tước Ứng Xuyên nam.
Người viết: Đào Đình Giáp 陶廷甲; chức vị: Thị nội Thư tả.
Người khắc: Nguyễn Duy Nhân 阮維仁; chức vị: Thợ đá xã An Hoạch huyện Đông Sơn.
Chủ đề:
– Bầu Hậu, gửi giỗ, biểu dương việc thiện.
– Hành trạng, công tích nhân vật.
– Sinh hoạt làng xã.
– Xây dựng, trùng tu di tích.
Tóm lược nội dung:
Ông Nguyễn Công Nhậm, chức Vương phủ Thị nội Giám ty Lễ giám tri Giám sự Chánh đội trưởng Tứ Trung hầu, có ân huệ nhiều với dân làng. Dân mời ông tham gia việc dựng đình làng. Ông làm hội chủ hưng công dựng đình làng và cúng 2 mẫu ruộng làm ruộng hương hỏa. Dân làng tôn bầu ông làm Hậu thần để báo ơn ông. Định lệ cúng giỗ hàng năm sau khi ông qua đời và kê số ruộng, xứ đồng ruộng đình.