Phiên âm:

Tế Thần văn

Thập nhị nhật

Đại vương:

Đức bẩm túy tinh;

Tư kiêm thông duệ.

Trung cần dự bá Nam thiên;

Hãn ngự công đa Bắc địa.

Đại giả phù tiểu giả hộ, chính trực vô thiên;

Cận giả đảo viễn giả cầu, hương hỏa [5] bất thế.

Xuân hòa thích thuộc sơ đầu;

Nhật hảo phương đinh thập nhị.

Tịch nhưng kỳ cựu, quản huyền phương bá Ngu ca;

Chế hoán duy tân, thăng giáng mỗi tuân Chu lễ.

Nguyện Đại vương giám thử đan thầm;

Tỷ đồng xã vĩnh ưng phúc chỉ.

 

Dịch nghĩa:

Văn Tế thần

Ngày 12

[Kính nghĩ Đức] Đại vương:

Đức vốn túy tinh;

Tư trời sáng suốt.

Trung thành cần mẫn tiếng dậy ở trời Nam;

Ngăn ngừa tai vạ công nhiều nơi đất Bắc.

Phù hộ lớn nhỏ, không lệch thẳng ngay;

Cầu đảo xa gần, lửa hương [5] chảy đổi.

Xuân hòa vừa đúng đầu năm[1];

Mười hai vừa hay ngày tốt.

Lệ xưa mở hội, vang lừng đàn sáo Ngu ca[2];

Đổi mới quy mô, tăng giảm tuân theo Chu lễ[3].

Mong Đại vương soi xét tấm lòng son;

Khiến cả làng muôn đời hưởng phúc.

 

[1] Theo các bài văn tế, thì đều là tế vào các ngày của tháng Giêng.

[2] Ngu ca: ca khúc đời vua Thuấn nhà Ngu. Ý nói ca khúc đời thái bình thịnh trị.

[3] Chu lễ: lễ pháp của nhà Chu.