Phiên âm:

[30]

Đại vương:

Nãi thánh nãi thần;

Chí tinh chí túy.

Hồng ân phổ phiến, đồng nhân cộng hựu Trung phu;

Lệ trạch bàng triêm, lân quốc dụng thông Hiển tý.

Bát thiên xuân trường tại, phục khánh thiều quang;

Thất thập dạ cung bồi, duật chiêu tự sự.

Thích tư phụng giá hoàn cung;

Phục nguyện giám lâm chính vị.

Tái trần nghi lễ, thanh hinh liêu ngụ tinh kiền.

Mặc hựu thôn dân, khang thọ vĩnh thân thái chỉ.

Thực lại Đại vương phù trì chi đại đức dã.

Cẩn cáo!

Hữu hoàn cung văn

Khải Định ngũ niên chính nguyệt thập… nhật

Dịch nghĩa:

[30]

Kính nghĩ Đại vương:

Là thánh là thần;

Rất tinh rất túy.

Ơn lớn bao la, người người cùng vào chốn Trung phu[1];

Tràn trề phúc trạch, làng nước đều suốt thông hiển tý[2].

Tám nghìn xuân còn mãi, lại chúc thiều quang[3];

Mười bảy tối cận kề, rõ ràng thờ phụng.

Đến nay rước kiệu hoàn cung;

Cúi mong trở về chính vị.

Dâng bày nghi lễ, thơm trong gửi gắm lòng thành.

Ngầm giúp thôn dân, khang thọ mãi ban phúc tốt.

Đều là nhờ đức lớn Đại vương phù trì vậy.

Nay kính tâu!

Trên đây là văn tế hoàn cung

Ngày mười … tháng Giêng năm Khải Định thứ 5 [1920].

 

[1] Trung phu 中孚: Tên một quẻ trong Kinh Dịch, tức quẻ Phong trạch Trung phu, là quẻ nói về có nhiều thuận lợi, tốt lành.

[2] Hiển tý 顯比: dùng chữ trong Kinh Dịch, ý nói bề tôi dùng đạo quang minh để giúp vua.

[3] Thiều quang: ánh sáng tươi đẹp, chỉ mùa xuân.