Phiên âm:
[31]
Mục lục văn
Từ Sơn phủ Đông Ngàn huyện Hà Khê xã, Quan viên Hương lão Sắc mục thôn trưởng thượng hạ cự tiểu đẳng, vị hữu Nhập tịch kỳ phúc lệ, nhân thân minh thúc ước sự.
Thường vị:
Vận thuộc bán thiên;
Thánh cư cửu ngũ.
Thế ngật nhiên diễn tộ điện bàn;
Ngự nghiễm nhĩ thùy y củng thủ.
Binh [32] bất huyết mộc bất nhẫn, hải yến hà thanh;
Xa đồng quỹ thư đồng văn, dân an quốc phú.
Hy hạo hồi thái cổ hội nguyên;
Thái hòa đổ Thành Chu vũ trụ.
Phong điều vũ thuận, nhân nhân túy bão hy du;
Thời hòa niên phong, xứ xứ âu ca cổ vũ.
Quyến tư Nam cảnh danh hương;
Thục nhược Hà Khê lạc thổ,
Tiền Chu tước lưu thông vạn phái, [33] thủy hiện tự minh châu;
Hậu Huyền vũ đột ngột thiên tằng, sơn sinh hình viên nhũ.
Tả Thanh long bàng hý thiền quynh;
Hữu Bạch hổ ấn khoa hiền vũ.
Tục đào hữu ý, kiêm vô song Kinh Bắc chi phương;
Phong cảnh phi phàm, thắng đệ nhất Từ Sơn chi phủ.
Tài lương tuấn tú, chân do mạch địa sở sinh;
Mỹ nữ phi phương, thực đắc tính thiên sở [34] phú.
Văn bão cẩm tâm tú khẩu, văn sĩ bân bân;
Vũ hoài nghĩa đảm trung can, vũ phu củ củ.
Định kỳ ngao chiếm lân đồ;
Chỉ nhật long phan phượng phụ.
Lưỡng đồ ký dĩ tương đương;
Tứ nghiệp tựu gia bị cụ.
Sĩ lệ chí huỳnh song tuyết án, mã thượng hoa khan;
Nông cần sừ Đông mẫu Nam cao, lẫm trung túc hủ.
Công xảo đốc thằng tiễu [35] mặc, thành hạ danh quy;
Thương thiện mậu kim dịch ngân, doanh sương quán hủ.
Ấp hưng nhân nhượng, gia Khổng Mạnh hộ Trình Chu;
Tục thượng tín trung, nhân Tắc Tiết hương Trâu Lỗ.
Phú quý sinh lễ nghĩa, tịch khải lý trung;
An lạc trí nhàn du, diên khai xuân thủ.
Xạ hương đấu vị, phồn hoa kỷ điểm phong quang;
Mai tuyết tranh tiên, la ỷ thập phần hảo [36] tố.
Y tề mạo chỉnh, lễ nhất đoàn hữu tự ban liên;
Vân bố tinh la, pháp tam xích hợp tòng quy củ.
Thượng khảo quan công dĩ xử tâm;
Hạ giáo phường nghệ nghi tinh vụ.
Chung cổ sênh dung tập tấu, ca vân ngưng tài triển nam thanh;
Quản huyền luật lã hài hòa, âm lương nhiễu sắc khoa nữ tú.
Thử luận công thưởng trọng đương gia;
Bỉ [37] tận lực lệ cao tự thụ.
Nội hương đảng dĩ nghiêm thúc ước, tâm tự thiết kiên;
Ngoại bàng quan vật đắc huyên hoa, khẩu như bình thủ.
Tọa khởi tiến thoái, thính tòng dĩ hữu biệt phân;
Xuất nhập ngôn hành, cẩn thận vô vi bạt hỗ.
Vu dĩ sự Thần lễ uy nghi;
Vu dĩ chúc [38] Hoàng đồ củng cố.
Thịnh hỹ tai!
Thượng mục hạ hòa;
Nhân khang vật phụ.
Tỷ xí tỷ xương, vĩnh thiên niên phúc hưởng Cơ trù;
Viết thọ viết khang, thùy vạn thế danh truyền kim cổ.
Tư ước.
Hoàng triều vạn vạn niên!
Hữu bảng thông tri.
Dịch nghĩa:
[31]
Văn mục lục
Các Quan viên, Hương lão, Sắc mục, thôn trưởng trên dưới lớn nhỏ xã Hà Khê huyện Đông Ngàn phủ Từ Sơn, vì có lệ vào đám cầu phúc, nhân nói rõ việc thúc ước (ràng buộc).
Từng nghe:
Vận may nay thuộc bán thiên[1];
Vua thánh ngôi cao cửu ngũ[2].
Thế vòi vọi, nước bền bàn đá dài lâu;
Ngôi tôn nghiêm, vua ngự chắp tay rủ áo.
Lính [32] không đổ máu, khiên chẳng bị đâm, sông trong biển lặng;
Xe cùng thứ trục, sách cùng loại chữ[3], nước mạnh dân yên.
Tục đẹp hậu thuần, trở lại ban sơ đời thái cổ;
Hòa bình hanh thái, cùng trông vũ trụ thời Thành Chu.
Gió hòa mưa thuận, người người vui thúi no say;
Tiết đẹp được mùa, chốn chốn hát ca nhảy múa.
Mến nghĩ danh hương Nam Việt;
Đâu bằng lạc thổ Hà Khê,
Phía trước là Chu tước, muôn nhánh lưu thông, [33] mặt nước trông như ngọc sáng;
Đằng sau là Huyền vũ, nghìn tầng chót vót, hình non nhìn tựa vú tròn.
Bên tả Thanh long vui thú cửa chùa;
Bên hữu Bạch hổ ấn khoa văn chỉ.
Tục đào hữu ý, đứng đầu một vùng Kinh Bắc;
Phong cảnh phi phàm, đẹp nhất trong phủ Từ Sơn.
Trai tài tuấn tú, quả do mạch đất sinh ra;
Gái đẹp phương phi, thực được tính trời [34] bẩm phú.
Văn vẻ gấm thêu sang sảng, văn sĩ bời bời;
Vũ mang trung nghĩa can trường, vũ phu dũng mãnh.
Định kỳ chiếm bảng tranh lân;
Phút chốc vin rồng bấu phượng.
Hai đường cũng đã tương đương;
Bốn nghiệp càng thêm đầy đủ.
Sĩ quyết chí song huỳnh án tuyết, trên ngựa xem hoa;
Nông cần cù ruộng thấp bờ cao, trong kho thóc mục.
Thợ khéo căng dây lấy mực [35], nên nổi tiếng tăm;
Buôn giỏi bán bạc mua vàng, đầy rương tiền của.
Ấp nêu nhân nhượng, nhà Khổng Mạnh hộ Trình Chu;
Tục chuộng tín trung, người Tắc Tiết làng Trâu Lỗ.
Phú quý sinh lễ nghĩa, tiệc mở trong làng;
An lạc nảy nhàn du, hội khai xuân mới.
Đua mùi hương xạ, phồn hoa mấy nét phong quang;
Tranh đẹp tuyết mai, lụa gấm muôn phần [36] tố hảo.
Chỉnh tề áo mũ, lễ một đoàn thứ tự chia ban;
La liệt sao mây, phép ba thước tuân theo quy củ.
Trên khảo quan công tâm xét thưởng;
Dưới giáo phường nghề ngón cốt tinh.
Chuông trống vang lừng rộn rã, hát mây ngưng tài khéo nam thanh;
Sáo đàn luật lã hài hòa, âm réo rắt sắc khoe nữ tú.
Chỗ này luận công thưởng cũng nên thêm;
Chỗ kia [37] hết sức gắng lên tự chịu.
Trong hương đảng đã nghiêm thúc ước, lòng tựa sắt son;
Ngoài bàng quan chớ được ồn ào, miệng nên gìn giữ.
Đứng ngồi tiến thoái, nghe lời đã có biệt phân;
Nói năng xuất nhập, cẩn thận chớ quen ngang ngạnh.
Là để sự Thần lễ được uy nghi;
Là để chúc [38] Hoàng đồ càng vững chãi.
Tốt đẹp thay!
Trên thuận dưới hòa;
Khỏe người lắm của.
Giúp hưng giúp thịnh, mãi nghìn năm hưởng phúc Cơ trù;
Nào thọ nào khang, để muôn thuở danh truyền kim cổ.
Nay ước thúc.
Hoàng triều muôn muôn năm!
Trên đây là bảng thông báo.
[1] Bán thiên: nửa nghìn/ nửa ngàn năm, tức 500 năm. Đời xưa cho rằng, cứ 500 năm, nước sông Hoàng Hà có một lần trong, ứng với điềm anh tài xuất thế, hoặc cứ 500 năm có bậc thánh nhân ra đời, do đó điển này dùng để chỉ kẻ sĩ, hiền tài. Sách Cựu Đường thư chép, Viên Dư Khương đi chơi với Vương Nghĩa Phương, nghe Nghĩa Phương nói: “Cứ 500 năm thì xuất hiện một người hiền tài, ngươi đúng là người đó”. Từ đó đổi tên là Viên Bán Thiên. Sau họ Viên đỗ cao, làm quan đến chức Quang lộc đại phu, trải 5 đời vua. Về sau “Bán thiên” dùng để chỉ đường quan hiển đạt. Vận bán thiên dùng để chỉ đương buổi thái bình, thịnh trị.
[2] Cửu ngũ: ngôi chí tôn, tức ngôi vua, lấy chữ trong Kinh Dịch.
[3] Xe cùng trục sách cùng chữ: nguyên văn “Xa đồng quỹ, thư đồng văn”, ý nói non sông thống nhất thu về một mối.