Phiên âm:
[44]
Kỵ húy nhật văn
(Thất nguyệt thập ngũ nhật)
Nhật lâm húy nhật;
Tinh hựu chu tinh.
Truy tư đại đức;
Cảm đạt tiềm hinh.
Thung dung hữu Lý mộc ư tương huyền(?), cô trung bất tử;
Khảng khái cự Trần đao ư nhất chiến, kính tiết như sinh.
Lịch đại cổn ba, hoàng hoàng diệu thái;
Thiên thu từ miếu, trạc trạc quyết linh.
Dục ư phiến chỉ biểu hoằng công, ngôn nan tận thuật;
Kính dĩ sổ bôi trần bạc lễ[1], mặc giám vi thành.
Dịch nghĩa:
[44]
Văn tế ngày húy kỵ
(Ngày 15 tháng 7)
Ngày đến hôm húy kỵ;
Sao dời trọn một vòng.
Tưởng nhớ đến đức lớn;
Dám thấu đạt hương hồn.
Thung dung có cây Lý đem trao, tấm cô trung sắt son bất tử;
Khảng khái chống dao Trần một trận, lòng kính tiết lẫm liệt như sinh.
Phong tặng các triều, chói chang rực rỡ;
Nghìn thu đền miếu, lừng lẫy linh thiêng.
Muốn đem mảnh giấy tỏ rõ công to, lời khôn thuật hết;
Kính sửa mấy chén cúng dâng lễ bạc, ngầm xét lòng thành.
[1] Ở vị trí này, nguyên bản chép thừa chữ “số”, nay tạm lược bỏ.